Ngày 27/11/2023, Việt Nam và Nhật Bản chính thức nâng cấp quan hệ lên “Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới”. Qua đó, hai nước khẳng định mong muốn cùng thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực lên tầm cao mới và mở rộng sang những lĩnh vực hợp tác mới. Đặc biệt, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản là dấu mốc quan trọng của mặt trận ngoại giao nước ta, tiếp tục minh chứng một trường phái đối ngoại và ngoại giao thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam - trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Thủ tướng Kishida Fumio bắt tay tại cuộc gặp báo chí sau Hội đàm ngày 27/11/2023 (Ảnh: TTXVN)
Minh chứng sinh động trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”
Mối quan hệ bang giao Việt Nam và Nhật Bản đã khởi đầu từ nhiều thế kỷ trước, để lại những di sản quý báu, điển hình là Phố cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam - Việt Nam) và con đường tơ lụa nối Hội An với các thương cảng của Nhật Bản. Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973. Hơn nửa thế kỷ qua, sự tin cậy về chính trị giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản không ngừng được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc tiếp xúc, giao lưu các cấp, đặc biệt là cấp cao diễn ra thường xuyên. Hai nước đã lần lượt xác lập khuôn khổ quan hệ từ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài” (năm 2002) lên “Đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á” (năm 2009) và “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á” (năm 2014). Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Nhật Bản (từ ngày 27 đến ngày 30/11/2023) theo lời mời của Nhà nước Nhật Bản, ngày 27/11/2023, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã nhất trí nâng cấp quan hệ hai nước lên “Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới”.
Lịch sử cho thấy Việt Nam và Nhật Bản là hai dân tộc có mối quan hệ từ lâu đời với nhiều nét tương đồng về văn hóa, truyền thống. Mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản không ngừng được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước vun đắp, trở thành tài sản chung quý báu của cả hai dân tộc. “Đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.
Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản chính là minh chứng sinh động cho trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, cụ thể trên bốn nội hàm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt.
Mối quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản trong suốt hơn 50 năm qua đã không ngừng phát triển tốt đẹp. Đây là mối quan hệ được xây dựng trên nền mối lương duyên và giao lưu nhân dân giữa hai nước từ nhiều thế kỷ trước, để lại những di sản quý báu cho thế hệ hôm nay. Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973, quan hệ giữa hai nước không ngừng được củng cố, vun đắp, trên sự tin cậy chính trị cao và hợp tác kinh tế hiệu quả, thiết thực. Nền tảng cho sự phát triển của quan hệ Nhật Bản - Việt Nam là sự thấu hiểu và đồng cảm giữa con người với con người. Đây là kết quả của quá trình đấu tranh mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Những khác biệt giữa hai nước là thực tế khách quan và là tất yếu trong một thế giới đa dạng, trong đó các dân tộc có quyền tìm kiếm, lựa chọn con đường phát triển của riêng mình.
Sự hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam không chỉ là mối quan hệ song phương mà đang trở thành mối quan hệ có thể cùng đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng của khu vực và thế giới. Nửa thế kỷ qua, “quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, toàn diện và thực chất trên mọi lĩnh vực với sự tin cậy cao, theo phương châm “Chân thành, tình cảm và tin cậy”, phù hợp với nguyện vọng của hai dân tộc, vì hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và thế giới”. Điều đó không chỉ xuất phát từ nhân tố lịch sử, mà còn bắt nguồn từ những động lực quan trọng của hiện tại và tương lai.
Thứ hai, linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Hơn 50 năm qua, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đạt được những bước phát triển mạnh mẽ, vượt bậc và toàn diện, với mức độ tin cậy chính trị cao, trong các lĩnh vực, từ kinh tế, thương mại, đầu tư, an ninh, quốc phòng, giáo dục, văn hóa, đến y tế, nông nghiệp, giao lưu nhân dân và hợp tác giữa các địa phương hai nước.
Việc xác lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện mang lại những lợi ích cả lâu dài và trước mắt cho Việt Nam và Nhật Bản. Việt Nam có cơ hội và điều kiện đưa quan hệ với Nhật Bản - đối tác có tầm quan trọng chiến lược - đi vào chiều sâu, hiệu quả, thực chất; phục vụ thiết thực mục tiêu phát triển, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao uy tín, vị thế đất nước. Thế giới đã nhìn thấy ở Việt Nam giá trị của một nhân tố cho hòa bình, ổn định và phát triển. Đây là kết quả to lớn của việc triển khai có hiệu quả chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ của Việt Nam. Sự phát triển tích cực của quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phản ánh và đáp ứng lợi ích chung của hai nước, đồng thời, phù hợp với xu thế và lợi ích chung của cả khu vực và thế giới.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Diễn đàn kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (Ảnh: Nhật Bắc – VGP)
Thứ ba, đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Sự phát triển theo chiều sâu của quan hệ Việt Nam và Nhật Bản bắt nguồn từ truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao, văn hoá dân tộc và thành tựu của đất nước - cái gốc của ngoại giao Việt Nam. “Đây là nền ngoại giao đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa”. Quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển trong bối cảnh: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn”. Điều làm nên “chất keo” gắn kết hai nước trong suốt nửa thế kỷ qua đó là sự bổ sung lợi ích cho nhau. Theo đó, quá trình đổi mới, phát triển đất nước của Việt Nam đòi hỏi cần có nguồn vốn đầu tư, công nghệ cao, nguồn nhân lực chất lượng và kinh nghiệm trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và Nhật Bản là đối tác tin cậy, sẵn sàng chia sẻ, hỗ trợ Việt Nam về vốn ODA, FDI , công nghệ cao, đào tạo nguồn nhân lực và chia sẻ kinh nghiệm phát triển.
Trong khi đó, Nhật Bản nhìn thấy ở Việt Nam là một đối tác thân thiện, có nhiều điểm chung, tương đồng, có thể bổ sung nguồn nhân lực cho Nhật Bản. Nhật Bản cần đến những đối tác như Việt Nam - một nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp cũng như cung ứng các sản phẩm nông nghiệp. Việt Nam cũng là đối tác mà Nhật Bản cần tăng cường hợp tác khi Việt Nam có một vị trí địa chính trị - địa kinh tế quan trọng, nằm trên một trục giao thông về hàng không, đường bộ, hàng hải quốc tế, lại ký kết nhiều FTA với nhiều đối tác lớn trên thế giới. “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Việc triển khai nhất quán và hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho chính quan hệ của Việt Nam với các nước nói chung và Nhật Bản nói riêng.
Cầu Nhật Tân, biểu tượng tình hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản
Thứ tư, biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong thời gian qua đã đạt được những bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Hai nước trở thành đối tác kinh tế quan trọng của nhau sau hơn 50 năm, trong đó, Nhật Bản hiện là nước cung cấp ODA lớn nhất, đối tác lớn thứ hai về hợp tác lao động, thứ ba về đầu tư và du lịch, thứ tư về thương mại của Việt Nam. Trong khi khẳng định và kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, hoạt động ngoại giao vẫn uyển chuyển, linh hoạt “ứng vạn biến”, “lấy nhu khắc cương” để đạt được mục đích: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”.
Việt Nam đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể, nhưng không từ bỏ các nguyên tắc chiến lược. Việt Nam và Nhật Bản cùng chia sẻ nhiều lợi ích song trùng và đan xen, đồng thời, nỗ lực gây dựng những lợi ích chiến lược lâu dài chung mới giữa hai nước. Hai nước có thể thiết lập và duy trì mối quan hệ song phương bền chặt nhờ sự gần gũi về mặt địa lý, bổ sung về kinh tế và các lợi ích chiến lược hội tụ. Việt Nam và Nhật Bản cùng thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực lên tầm cao mới và mở rộng sang những lĩnh vực hợp tác mới như ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số,... Hai nước đều có lợi ích chung trong việc bảo đảm hòa bình, ổn định an ninh và thịnh vượng cho khu vực. Đây vừa là nguyên tắc cơ bản trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, vừa là lợi ích quan trọng mà hai bên cùng hướng tới.
Phát huy sức mạnh ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản
Trải qua gần 25 năm đầu thế kỷ XXI, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, những bài học kinh nghiệm về trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” vẫn còn nguyên giá trị thời đại, trong đó, Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản chính là một minh chứng sinh động, điển hình. Kết quả của hơn 35 năm đổi mới, “chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, “Năm năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn những hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra”.
Nhà máy nhiệt điện BOT Vân Phong 1 (Khánh Hòa) do Tập đoàn Sumitomo Corporation (Nhật Bản) làm chủ đầu tư với tổng vốn lên tới 2,58 tỷ USD
Hiện nay, trên thế giới, tình hình diễn biến phức tạp, khó dự báo. “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ ngày càng quyết liệt, thậm chí có nguy cơ xung đột, đối đầu, tạo thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước có độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế như nước ta”. Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; bước đầu vượt lên, kiềm chế đại dịch Covid-19, ổn định kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân, khôi phục, duy trì tăng trưởng kinh tế. Để phát huy sức mạnh ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh quán triệt và tích cực, chủ động, linh hoạt triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược. Đề cao việc xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết và đồng thuận trong nước. Chú trọng “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”; giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử lý các thách thức đối ngoại, tranh thủ điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế”. Phát huy tối đa mọi yếu tố thuận lợi của đất nước để chủ động, tích cực tham gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương: “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy”.
Hai là, thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc diễn biến tình hình, đề cao chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược, không để bị động, bất ngờ. Coi trọng tính nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công. Chú trọng xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước, các mối quan hệ song phương và đa phương. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ các vấn đề thuộc lợi ích cốt lõi, mang tầm chiến lược của Việt Nam, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, chắc chắn, thận trọng, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn. Đồng thời, đẩy mạnh đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới.
Ba là, tăng cường mở rộng và nâng cao hiệu quả thực chất các hoạt động đối ngoại. Chú trọng nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, văn hoá và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng với các nước. Tiếp tục đưa các mối quan hệ với các đối tác đã có khuôn khổ quan hệ, trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế, trọng tâm là các cam kết trong Tổ chức Thương mại thế giới, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, APEC, CPTPP, RCEP, EVFTA, EVIPA...
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng tổ chức, bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.
Thay lời kết
Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản là thành công đánh dấu bước trưởng thành to lớn của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, minh chứng một trường phái đối ngoại rất đặc sắc và độc đáo - trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Đây là sự kiện quan trọng, mở ra chương mới trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển thực chất, toàn diện, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ, đáp ứng lợi ích của hai bên, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới. Những bài học kinh nghiệm về trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam và Nhật Bản rất cần được tiếp tục vận dụng sáng tạo để triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ mới./.
Thiếu tá, ThS.Nguyễn Quang Bình (Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)
----------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
6. Nguyễn Phú Trọng (2023), Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
7. Nguyễn Phú Trọng (2023), Bài phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 ngày 19 tháng 12 năm 2023, Hà Nội.
8. Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ Việt Nam - Nhật Bản lên Đối tác chiến lược toàn diện ngày 27 tháng 11 năm 2023, Tokyo, Nhật Bản.